Thiết lập chế độ quân chủ: Áo trỗi dậy thành một cường quốc (1648–1740) Lịch_sử_Áo

Bất chấp những thất bại trong Chiến tranh Ba mươi năm, Áo đã phục hồi về kinh tế và nhân khẩu học và củng cố một nền bá quyền mới thường được gọi là thời đại Baroque Áo.[33] Đến năm 1714, Áo trở lại là một cường quốc. Tuy nhiên, nguồn gốc của tính hợp pháp của nhà Habsburg với sự phụ thuộc vào sự hòa hợp tôn giáo và chính trị, đã khiến nó ngày càng trở nên lạc hậu trong Thời đại Khai sáng. Tuy nhiên, trong nghệ thuật và kiến trúc, phong cách baroque phát triển mạnh mẽ ở Áo. Trong thời bình, Ferdinand III (1637–1657) được coi là một người bảo trợ tuyệt vời cho nghệ thuật và các nhạc sĩ.

Sau cái chết của Ferdinand vào năm 1657, con trai ông là Leopold I (1657–1705) kế vị, Leopold I có thời gian trị vì tương đối dài. Trong khi đó, ở "Thượng Áo", Ferdinand Karl (1632–1662) mặc dù cũng là một người bảo trợ nghệ thuật nhưng lại cai trị theo phong cách chuyên chế và ngông cuồng. Anh trai của ông là Sigismund Franz (1662–1665) kế vị Ferdinand Karl một thời gian ngắn vào năm 1662 nhưng qua đời mà không có người thừa kế vào năm 1665, các vùng đất của ông được chuyển lại cho Leopold I. Do đó, từ năm 1665, Áo được thống nhất dưới một chế độ chung.

Leopold I (1657–1705): Sự thống nhất cuối cùng và giải phóng khỏi Đế chế Ottoman

Leopold I, 1657–1705.

Triều đại của Leopold I được đánh dấu bằng sự trở lại sau một loạt các cuộc chiến tranh. Ngay cả trước khi kế vị cha mình vào năm 1657, ông đã tham gia Chiến tranh phương Bắc lần thứ hai (1655–1660) sau khi Thụy Điển tham gia Chiến tranh Ba mươi năm, trong đó Áo đứng về phía Ba Lan, đánh bại Thân vương quốc Transylvania, một đồng minh của Thụy Điển và Ottoman và thiết lập chính quyền bảo hộ.

Vào cuối cuộc chiến đó, người Ottoman đã đánh chiếm Nagyvárad ở Transylvania vào năm 1660, đánh dấu khởi đầu cho sự suy tàn của công quốc đó và gia tăng ảnh hưởng của nhà Habsburg. Người Transylvania đã kêu gọi Vienna giúp đỡ trong vô vọng mà không biết về các thỏa thuận bí mật giữa hai vương triều Ottoman-Habsburg.

Trận Vienna, 1683.

May mắn thay cho Áo, Thổ Nhĩ Kỳ phải bận tâm đến những nơi khác trong Chiến tranh Ba mươi năm dù Áo có thể dễ bị tấn công vào hai bên sườn phía đông. Mãi cho đến năm 1663, người Thổ Nhĩ Kỳ mới nảy sinh ý định nghiêm túc đối với Áo nhưng quân đội Ottoman thất bại nặng nề, bị đánh bại trong trận Saint Gotthard vào năm sau.

Các điều khoản được đưa ra trong lúc phải cấp thiết đối phó với người Pháp ở phía Tây là các điều khoản bất lợi đến mức chúng đã khiến người Hungary nổi dậy. Tệ hơn nữa, sau khi hành quyết các nhà lãnh đạo, Leopold đã cố gắng áp đặt một cuộc cải cách, khơi mào một cuộc nội chiến tôn giáo dù ông đã nhượng bộ một phần vào năm 1681. Do đó, vào đầu những năm 1680, Leopold đã phải đối mặt với cuộc nổi dậy của người Hungary, vốn được người Ottoman hậu thuẫn và khuyến khích giữa lúc phải đối mặt với nguy cơ từ người Pháp.

Trong khi đó, Áo đã tham chiến trong Chiến tranh Pháp-Hà Lan (1672–1678) và với việc ký kết Hiệp ước Nijmegen mang lại cho người Pháp những cơ hội đáng kể (thống nhất), thực tế là các hoạt động của người Pháp, giờ cũng là một cường quốc, khiến Leopold phân tâm. Tiếp nối lợi thế của mình với người Thổ Nhĩ Kỳ và các mối quan hệ Áo-Ottoman được điều chỉnh bởi hòa ước Vasvár, điều này sẽ giúp giảm áp lực cho Áo trong khoảng hai mươi năm. Việc thống nhất của Pháp đã đưa Pháp vào thế trung lập rất cần thiết trong khi Áo vẫn đang phải dè chừng ở phía đông.

Người Ottoman lại tiếp tục tấn công Áo vào năm 1682 để trả đũa các cuộc đột kích của vương triều Habsburg. Người Ottoman tiến đến và chuẩn bị bao vây Vienna vào năm 1683, nơi được coi là một thành trì vững chắc. Các lực lượng đồng minh cuối cùng đã tỏ ra vượt trội, việc phá vây và theo sau là một loạt chiến thắng vào các năm 1687, 1687 và 1697 dẫn đến việc ký kết hiệp ước Karlowitz (1699), Belgrade thất thủ vào năm 1688 (nhưng bị chiếm lại vào năm 1690). Điều này mang lại quyền bá chủ của Áo ở Áo và đưa một số lượng lớn người Serb vào Đế quốc, những người có tác động lớn đến các chính sách trong nhiều thế kỷ tiếp theo.

Với biên giới phía đông cuối cùng đã được bảo đảm, Vienna có thể phát triển mạnh mẽ (Vienna gloriosa) và mở rộng ra ngoài giới hạn truyền thống của nó. Ở phía đông, Leopold thấy rằng sẽ chẳng thu được gì bằng các biện pháp hà khắc, chính sách đó đã dẫn tới sự chấp nhận của ông và ông đã cấp quyền lập nghị viện cho người Hungary thông qua Văn kiện Leopoldianum năm 1691. Tuy nhiên, về mặt quân sự, điều này chỉ nhằm giúp Áo rảnh tay hơn để tham chiến trong các cuộc chiến tranh ở Tây Âu sau này. Áo ngày càng tham gia nhiều hơn vào cuộc cạnh tranh với Pháp ở Tây Âu, chiến đấu với Pháp trong Chiến tranh của Liên minh Augsburg (1688–1697).

Về mặt đối nội, triều đại của Leopold được đánh dấu bằng việc trục xuất người Do Thái khỏi Vienna vào năm 1670, khu vực này được đổi tên thành Leopoldstadt. Trong khi năm 1680, Leopold áp dụng Pragmatica, điều chỉnh lại mối quan hệ giữa địa chủ và nông dân.[34]

Chiến tranh kế vị Tây Ban Nha (1701–1714): Joseph I và Karl III

Phức tạp nhất là Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha (1701–1714), trong đó người Pháp và Áo (cùng với các đồng minh Anh, Hà Lan và người Catalan của họ) tranh giành quyền thừa kế các vùng lãnh thổ rộng lớn của nhà Habsburg Tây Ban Nha. Nguyên nhân bề ngoài là do tương lai Karl III của Áo (1711–1740) tuyên bố ngai vàng Tây Ban Nha bị bỏ trống vào năm 1701. Leopold tham chiến nhưng không sống để chứng kiến kết cục của nó và được kế vị bởi Joseph I vào năm 1705. Triều đại của Joseph rất ngắn. Chiến tranh cuối cùng đã kết thúc vào năm 1714 khi anh trai của Joseph là Karl III kế vị ông.

Mặc dù người Pháp đã đảm bảo quyền kiểm soát Tây Ban Nha và các thuộc địa của nó cho cháu trai của Louis XIV nhưng người Áo cuối cùng cũng đạt được nhiều lợi ích đáng kể ở Tây Âu bao gồm cả Hà Lan thuộc Tây Ban Nha trước đây (nay được gọi là Hà Lan thuộc Áo, gồm hầu hết Bỉ ngày nay), Công quốc Milano ở Bắc Ý, Napoli và Sardinia ở Nam Ý. (Sau này được đổi lấy Sicilia vào năm 1720).[35] Kết thúc cuộc chiến năm 1714, Áo đã đạt được vị thế quan trọng trên vũ đài chính trị châu Âu.

Chiến tranh kết thúc chứng kiến các đồng minh của Áo bỏ rơi họ do việc Áo ký kết các hiệp ước với người Pháp, Karl cuối cùng đã ký kết Hiệp ước Rastatt vào năm 1714. Dù nhà Habsburg có thể không đạt được tất cả những gì họ muốn, họ vẫn thu được lợi ích đáng kể qua cả hai hiệp ước Rastatt và Karlowitz và thiết lập được quyền lực. Trong phần còn lại của triều đại của Karl III đã chứng kiến nước Áo từ bỏ nhiều thành tựu ấn tượng này, phần lớn là do Karl lo ngại về sự tuyệt tự sắp xảy ra của nhà Habsburg.

Karl III: Kế vị và Sắc lệnh Thực dụng (1713–1740)

Karl III, 1713–1740
Bài chi tiết: Karl III

Vì Karl hiện đang gặp vấn đề về quyền kế vị, chỉ có hai cô con gái còn sống. Giải pháp của ông là xóa bỏ quyền thừa kế duy nhất của nam giới bằng Sắc lệnh thực dụng năm 1713. Vào năm 1703, cha của ông, Leopold VI đã lập một hiệp ước với các con trai của mình cho phép phụ nữ có quyền thừa kế nhưng rất mơ hồ về chi tiết. Sắc lệnh thực dụng đã củng cố điều này và ngoài ra còn đưa ra quy định về tính không thể tách rời ( indivisibiliter ac inseparabiliter ) của lãnh thổ nhà Habsburg.

Điều này là cơ sở pháp lý cho sự liên minh với Hungary và hợp pháp hóa chế độ quân chủ Habsburg. Nó sẽ được xác nhận bởi Thỏa hiệp Áo-Hung năm 1867 và sẽ kéo dài đến năm 1918. Sau đó, ông cần tăng cường dàn xếp bằng cách thương lượng với các quốc gia xung quanh. Đàm phán nội bộ tương đối đơn giản và nó trở thành luật vào năm 1723.

Karl giờ đây sẵn sàng đưa ra những lợi thế cụ thể về lãnh thổ và quyền lực để đổi lấy sự công nhận vô giá trị của các cường quốc khác về Sắc lệnh thực dụng giúp con gái ông Maria Theresia trở thành người thừa kế của ông. Một thách thức không kém là câu hỏi về triển vọng hôn nhân của người thừa kế và cách họ có thể ảnh hưởng đến cán cân quyền lực của châu Âu. Sự lựa chọn cuối cùng của Franz Stefan của Lothringen vào năm 1736 đã tỏ ra không được lòng các cường quốc khác, đặc biệt là Pháp.

Chiến tranh tiếp tục là một phần của đời sống châu Âu vào đầu thế kỷ 18. Áo đã tham chiến trong Chiến tranh của Liên minh bốn nước và kết quả là Hòa ước The Hague năm 1720 chứng kiến lãnh thổ nhà Habsburg đạt được sự mở rộng lãnh thổ lớn nhất. Chiến tranh với Pháp lại nổ ra vào năm 1733 cùng với Chiến tranh Kế vị Ba Lan mà cuộc dàn xếp tại Hiệp ước Vienna năm 1738 chứng kiến Áo nhường Napoli và Sicilia cho Tây Ban Nha. Don Carlos để đổi lấy Công quốc Parma nhỏ bé và sự tuân thủ của Tây Ban Nha và Pháp đối với Sắc lệnh Thực dụng. Những năm sau đó dưới triều đại của Karl cũng chứng kiến nhiều cuộc chiến chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ, bắt đầu bằng một cuộc giao tranh thành công vào năm 1716–1718, đỉnh điểm là Hiệp ước Passarowitz. Ít thành công hơn là cuộc chiến 1737–1739 dẫn đến việc Áo bị mất Belgrade và các lãnh thổ biên giới khác theo Hiệp ước Belgrade.[36]

Về mặt đối nội, lợi ích chính trị và quân sự đi kèm với sự mở rộng kinh tế và phục hồi dân số ( Schwabenzug ) khi Áo bước vào thời kỳ Thượng Baroque với vô số các tòa nhà mới trong đó có Belvedere ( 1712–1783) và Karlskirche (1716–1737). Các công trình này được xây bởi các kiến trúc sư vĩ đại của thời kỳ đó như Fischer, Hildebrandt Prandtauer. Tuy nhiên, tình hình tài chính của nhà Habsburg lại rất mỏng manh. Họ đã dựa vào các chủ ngân hàng người Do Thái như Samuel Oppenheimer để tài trợ cho các cuộc chiến và sau đó khiến ông ta phá sản. Tuy nhiên, hệ thống tài chính ở Áo vẫn còn lạc hậu và bất cập. Vào thời điểm Karl qua đời vào năm 1740, ngân khố gần như cạn kiệt.

Sự bất khoan dung tôn giáo của nhà Habsburg thể hiện rất rõ, các vùng lãnh thổ cốt lõi của đế chế bị giám sát gắt gao hơn vào năm 1731, 22.000 người bị nghi ngờ là tín đồ Tin lành đã bị trục xuất khỏi SalzburgSalzkammergut. Sự bất khoan dung với những người Do Thái ở Bohemia và các khu vực lân cận dưới thời Familianten ( Familiantengesetze ) cũng tương tự như sự bất khoan dung tôn giáo vào năm 1726 và 1727. Nếu không sợ những hậu quả kinh tế có thể xảy ra, những điều tồi tệ hơn nữa đã xảy ra và quá trình điều chỉnh đó là cần thiết cho những ý tưởng theo chủ nghĩa duy lý hơn của Tây Âu. Trong số này có chủ nghĩa bàng quan khuyến khích sự tự cung tự cấp kinh tế trong quốc gia. Vì vậy, các ngành công nghiệp trong nước như Linzer Wollzeugfabrik được thành lập và khuyến khích nhưng thường những ý tưởng như vậy đã bị khuất phục bởi những quyền lợi được trao cho tầng lớp quý tộc và giáo hội. Chủ nghĩa duy lý nhấn mạnh vào tự nhiên và phổ biến là phản đề của chủ nghĩa tinh hoa Habsburg và quyền lực thần thánh. Cuối cùng các cường quốc bên ngoài đã áp đặt chủ nghĩa duy lý vào Áo.

Trước khi qua đời vào năm 1740, Karl III đã đảm bảo được hầu hết các cường quốc Châu Âu chấp nhận Sắc lệnh Thực dụng. Câu hỏi còn lại là liệu nó có thực tế trong ván cờ quyền lực phức tạp của các triều đại châu Âu hay không.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lịch_sử_Áo http://www.fraueninbewegung.onb.ac.at/Pages/Histor... http://www.aeiou.at/aeiou.film.data.film/o254a.mpg http://www.akustische-chronik.at/ http://en.doew.braintrust.at/doew.html http://www.wien.gv.at/english/history/commemoratio... http://www.staatsvertrag.at/ http://www.wagna.at/flaviasolva/sites/flavia2.html http://rbedrosian.com/Ref/Bury/ieb6.htm http://senses-artnouveau.com/biography.php?artist=... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,8...